Đánh giá. Nhà nước chủ nô hay còn gọi là nhà nước chủ nô, là nhà nước tiên phong trong lịch sử dân tộc và là tổ chức chính trị đặc biệt quan trọng của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ nô là một hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp dựa trên nền tảng chính trị Loại từ: động từ. 2. Các định nghĩa của "trì hoãn": trì hoãn trong Tiếng Anh. To delay: Trì hoãn, từ được dùng để nói việc gì đó xảy ra trễ hơn so với kế hoạch ban đầu hoặc mong đợi. Due to bad weather, the plane was delayed and could not fly on time. It is possible that I will do vậy, căn cứ khoản 1 điều 512 bộ luật tố tụng dân sự quy định: " tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết "; khoản 1 điều 14 luật tố cáo quy định: " chánh án tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi … Câu hỏi: Người đứng đầu chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản được gọi là. A. Thiên hoàng. B. Sôgun (Tướng quân) C. Nữ hoàng. D. Vua. Đáp án: B. Sôgun (Tướng quân) 2. Tình hình Nhật Bản từ đầu thế kỉ XIX đến trước năm 1868. Tuy nhiên, với mục đích xuất phát từ sự tự nguyện nên hành giả có thể trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép. Chỉ cần thành tâm và không mưu cầu những điều bất thiện. Khi bắt đầu tụng chú, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh. Nghĩa là quý Phật tử phải thả lỏng tâm, đừng để cơ thể, đầu óc căng thẳng. Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. Chú Đại Bi được lấy ra từ Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni của Phật Quán Thế Âm, gọi tắt là Chú Đại Bi. Chú Đại Bi có thảy là 84 câu, 415 chữ. Dưới đây là nghi thức trì tụng Chú Đại Bi đơn giản tại nhà. Chú Đại Bi có lẽ là bài trì chú mà hầu hết các Phật tử đều biết đến, các chùa cũng thường trì tụng chú trong các thời kinh. Hôm nay Tâm Hướng Phật xin hướng dẫn trì tụng Chú Đại Bi theo từng bước để tâm mình được bình an thanh tịnh, để được hưởng an lạc hoan hỷ trong suốt năm dài. Chú Đại Bi có 84 câu, mỗi câu đều có uy lực không thể nghĩ bàn. Hòa Thượng Tuyên Hóa bảo “Tụng Chú Đại Bi mà đúng như pháp thì khi bạn tụng chú Trời đất đều chấn động, cả pháp giới chuyển rung. Trên thông cả cõi trời, dưới thấu khắp cả các cõi giới địa ngục. Khắp cả mọi pháp giới, trời người đều cảm thông và tán dương công đức.” Nếu như bạn có thể ăn chay giữ giới thì cảnh giới khi tụng chú là Bất khả tư nghì. Ngay khi bạn bắt đầu trì tụng, do uy lực của chú Trên hư không có hóa thân chư Bồ Tát cùng vô lượng chư thiên, Thiên Long, cùng thần Mẫu Nữ và quyến thuộc đến chứng minh gia bị. Phía bên dưới là vô biên chúng Quỷ Thần hội tụ, chắp tay nghe Pháp. Khi bạn đọc chú lên thì tất cả đều hoặc đứng hoặc quỳ, đồng chắp tay lắng nghe. Cũng lúc ấy, “nơi Địa ngục liền đình chỉ tất cả hình phạt trị tội. Toàn bộ kẻ thọ hình đều quỳ tại đó chắp tay hướng lên nghe Chú Đại Bi. Khi bạn tụng chú xong, thì nơi địa ngục bắt đầu hành hình lại, nhưng mức độ giảm đi; người thọ hình chịu thống khổ cũng nhẹ hơn”. Trong nghi thức tụng hầu hết các kinh luôn có chú Đại Bi. Sở dĩ có việc này là do mật ý của chư Tổ, muốn nương uy lực của chú bảo vệ cho người tụng khỏi các ma chướng. Một ý nhỏ niệm như thế thôi, cũng đủ để ta thấy uy lực vô biên của Chú Đại Bi. I. Chuẩn bị Hòa Thượng Tuyên Hóa bảo “Thần chú này khả năng cứu khổ ban vui cho mọi chúng sinh nên gọi là Chú Đại Bi. “ Bi” có công năng làm cho mọi khổ nạn của chúng sinh được tiêu trừ. Trong đó chủ yếu nhất là công năng chữa lành mọi bệnh tật.” Cho nên bất luận bạn có phải là Phật tử hay không đều có thể trì tụng được. Bất kể là bạn bị bệnh gì, nếu bạn trì niệm Chú Đại Bi, thì mọi bệnh khổ đều được tiêu trừ! Bạn đọc hết một lần chú thì gọi là tụng 1 biến chú. Theo kinh dạy thì mỗi ngày nên tụng tối thiểu là 05 biến, nếu có điều kiện tụng nhiều hơn càng tốt. Lại bạn nên học thuộc lòng để tụng là tốt nhất bởi thuộc lòng mà tụng thì tâm dễ chuyên nhất, ít vọng niệm. Về vệ sinh thân thể và ăn uống Theo Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Người tụng chú Đại Bi cần tuyệt đối kiêng ăn Ngũ Vị Tân. Trước khi tụng nên đánh răng, tắm rửa sạch sẽ, quần áo dài gọn gàng. Để được lợi ích nhất khi tụng Chú Đại Bi, bạn nên ăn chay và giữ gìn 5 giới căn bản bởi nếu ăn chay được thì nhanh được cảm ứng, mọi mong cầu đều nhanh được thành tựu. Cho nên nếu như đang gấp cầu điều gì đó thì nên phát nguyện ăn chay trong thời gian tụng để nhanh được thành tựu. Nếu không ăn chay thì tuy vẫn tụng được, nhưng sẽ lâu được cảm ứng và dễ phát sanh chướng ngại. Bạn tụng chú lâu ngày mà không “thấy” gì là bởi không bỏ mặn ăn chay nên chậm được cảm ứng, chớ chẳng phải do chú không linh! Cần hết sức lưu ý ở điểm này. Tụng thế nào khi nhà không có bàn thờ Phật Bởi là “Quảng Đại Viên Mãn Đà Ra Ni” cho nên nhà không có bàn thờ Phật thì bạn ngoảnh mặt sang hướng Tây mà trì tụng. Nếu bạn ở trọ chật hẹp thì chỉ cần ngồi một góc nào đó sạch sẽ là được. Tụng chú quan trọng nhất ở tâm chí thành khẩn thiết. Nếu giữ được tâm thanh tịnh thì bạn ngồi nơi đâu và hướng nào cũng tụng được. Trong nghịch cảnh mà phát được cái tâm tụng chú, phước đức vô lượng vô biên. Về cách ngồi tụng và Cảnh giới phát sinh Tụng chú mà tâm lực kiên định thì quỳ tụng là có công đức lớn nhất. Nếu không quỳ được thì bạn ngồi kiết già hoặc bán già, tay kiết Tam muội ấn mà tụng là được. Đại Bi Ấn chỉ dùng cho người giữ giới tinh nghiêm và chuyên tu mà thôi, không nên lạm dùng. Khi tụng chú mà tâm sanh vọng niệm thì cứ mặc kệ, đừng để ý và cũng đừng lo lắng. Khi bạn chuyên cần tụng một thời gian, vọng niệm sẽ tự ít dần đi. Nếu trong lúc tụng phát sanh các cảnh giới như Ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt; đỉnh đầu như có kiến bò; xung quanh có những tín hiệu lạ… bạn nên mặc kệ, đừng quan tâm đến. Tập trung tâm trí tụng là quan trọng nhất. Cảnh giới dù thiện cảnh hay ma cảnh, nếu ta không để ý đến từ nó tự mất. Đừng chấp tâm vào đó là đúng pháp, nếu chấp tâm vào đó sẽ dễ bị thử thách. Cách trì niệm Thần Chú Đại Bi Có 3 phương pháp tụng chú 1 đọc rõ thành tiếng; 2 đọc nhép miệng, hoặc âm rất nhỏ chỉ người đọc nghe được 3 đọc thầm trong tâm. Mục đích của việc tụng chú là dùng âm thanh của chú, và cách đọc chú làm cho tâm trong sạch, không còn phiền não, không còn suy nghĩ lăng xăng trong đầu, nhờ đó tâm được định tĩnh. Khi tâm được định tĩnh, đây được gọi là giải thoát, nghiệp chướng tiêu trừ. Tùy vào điều kiện và hoàn cảnh lúc bắt đầu trì chú mà quý Phật tử có thể chọn 1 trong 3 cách trên. Tuy nhiên, có một số lưu ý khi tụng chú cho mỗi phương pháp đó là rõ ràng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Đọc không nhanh, không chậm để cho chúng sanh các loài đều nghe được. Nên hành thiền ngày hai buổi, buổi sáng sớm lúc mới rạng đông và buổi hoàng hôn lúc ngày chuyển qua đêm, còn nửa đêm thì nên thức dậy để đọc kinh. Đó là thời khóa biểu lý tưởng cho người tu tập, tuy nhiên nếu ta không có điều kiện thì chọn một thời khóa trong ngày cũng được. II. Cách tác bạch trước khi tụng Kinh, niệm Phật Bảng phát nguyện tác bạch hồi hướng này thử nghiệm cho nhiều người rất hiệu quả, những vong linh oan gia trái chủ rất hoan hỉ, vì vậy tặng cho các bạn nên đọc mỗi ngày khi chép kinh, tụng kinh. Người khuất mặt đều hoan hỉ siêu thoát. Thực hành Con tên là Pháp danh Nếu có. Hồi hướng cho …. Nguyện cho con trong đời này kiếp này và muôn đời sau, con xin Đức Phật A Di Đà chứng giám cho lòng thành của con. Nguyện cho con làm bất cứ mọi điều Phước lành hoặc công Đức tu tập được trong một ngày, mỗi giờ, mỗi khắc, mỗi giây hoặc trong một đời và nhiều đời trước, con xin hồi hướng cho Cửu huyền thất tổ, ông bà nội ngoại, đa sanh phụ mẫu, ân sư đời đạo, tất cả người thân thuộc của con từ nhiều đời nhiều kiếp trước và hiện đời này. Con nguyện hồi hướng công đức tụng Kinh tụng Chú, niệm Phật và các công đức, phước báu này cho Pháp giới chúng sinh, cho linh hồn ông bà tổ tiên thân gia quyến thuộc của con trong từ vô thỉ kiếp đến nay; cho cha mẹ, anh em, vợ chồng, con của con nhiều đời nhiều kiếp trước và hết thảy các oan gia trái chủ của con trong từ vô thỉ kiếp đến nay. Con cầu nguyện Tam Bảo phóng quang gia hộ cho hết thảy cùng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây phương Tịnh Độ”. Hồi hướng cho tất cả những người bị tai nạn đường phố và tất cả tai nạn khác, các vong linh thai nhi bị sẩy thai, bị loại bỏ, hồi hướng cho các chủng tử trên thân thể của tôi, nguyện chư vị có thể nghe được Phật pháp, phát tâm đại sám hối, sám hối những ác nghiệp đã tạo trong quá khứ, sớm vãng sinh thiện đạo, lìa khổ được vui”. Hồi hướng cho những chiến sĩ vô danh, những vong hồn không người thân thích, tất cả các chúng sanh khắp 10 phương pháp giới, tất cả những oan gia trái chủ có ân oán với con từ vô lượng kiếp. Mong cho họ nghe được, hiểu thấu được kinh tạng mà phát tâm Bồ đề, quy đầu Tam Bảo thoát khổ được vãng sanh Tây phương cực lạc nơi Đức Phật A Di Đà, để tất cả chúng sinh thoát khỏi đau khổ trong vòng lục đạo. Nguyện ơn trên Tam Bảo gia hộ độ trì cho con luôn luôn được trải lòng thương yêu khắp tất cả chúng sanh, dù thế giới hữu hình hay vô hình. Xin cho con biết thương yêu loài người, loài vật và chúng sanh trong địa ngục cho đến cỏ cây. Cho con luôn được giữ lòng khiêm hạ, luôn luôn thấy mình như cỏ rác, cát bụi. Nguyện trong đời này và nhiều đời nhiều kiếp về trước nếu con làm điều gì có ích, những công đức tu tập, những Phước báu mỗi ngày con xin chia sẻ những công đức, phước đức của con đến khắp pháp giới chúng sanh. Nguyện cho con khi bỏ báo thân này con và tất cả các chúng sinh được vãng sanh Tây phương cực lạc. Cúi mong đức Phật A Di Đà từ bi không thể nghĩ bàn, ban ơn gia hộ cho chúng sinh, tất cả cùng được thành tựu đại bi thắng phước. Ngưỡng nguyện đại bi Quan thế Âm cùng Phật pháp tăng vô thượng Tam Bảo mật thuỳ chứng minh gia hộ. Con phát tâm với lòng thành kính. Xin mời tất cả oan gia trái chủ, các vong linh Chư thiên Hộ pháp cùng chắp tay theo con cùng tụng kinh, trì chú, niệm Phật với nhau. Nguyện Đức Phật chứng giám cho lời cầu nguyện của con được thành tựu mỗi ngày luôn tăng trưởng. Nguyện cầu tất cả được vãng sanh Tây phương cực lạc. Nam Mô A Di Đà Phật. III. Nghi thức trì tụng Chú Đại Bi 1. Tụng ba lần Chú Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn-Ngôn để cho nơi miệng mình được thanh tịnh “Tu rị, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, ta bà ha”3 lần 2. Tụng ba lần Chú Tịnh Thân Nghiệp Chơn-Ngôn để cho thân được thanh tịnh, sạch sẽ “Tu đa rị, tu đa rị, tu ma rị, ta bà ha”3 lần 3. Tụng ba lần Chú An Thổ-Địa Chơn-Ngôn để cho nơi chỗ đất đai và nhà cửa của mình được thanh tịnh “Nam mô tam mãn đa, một đà nẫm, án độ rô, độ rô, địa vĩ, ta bà ha”3 lần 4. Tịnh Pháp Giới Chơn-Ngôn Án lam, tóa ha 3 lần 5. Tịnh Tam Nghiệp Chơn-Ngôn Án ta phạ, bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám 3 lần 6. Nguyện Hương Nguyện đem lòng thành kính, Gởi theo đám mây hương. Phưởng phất khắp mười phương. Cúng dường ngôi Tam Bảo, Thề trọn đời giữ đạo, Theo tự tánh làm lành, Cùng pháp giới chúng sinh, Cầu Phật từ gia hộ, Tâm Bồ Đề kiên cố, Xa bể khổ nguồn mê, Chóng quay về bờ Giác 1 lạy O O nghĩa là gõ chuông nếu có! 7. Đảnh Lễ Chí Tâm Đảnh Lễ Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. 1 lạy O Chí Tâm Đảnh Lễ Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. 1 lạy O Chí Tâm Đảnh Lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 1 lạy O Kính lạy đức Thế tôn, Quy y các Phật đà, Nay con phát đại nguyện Trì tụng chú Đại Bi, Trên trả bốn ơn nặng, Dưới giúp ba đường khổ. Những người thấy, nghe được Đều phát tâm bồ-đề, Thực hành hạnh trí huệ, Tập hợp mọi phước đức Báo thân này kết thúc, Đồng sanh cõi cực lạc. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật 3 lần Phật pháp tuyệt diệu, Cực kỳ cao xa, Trăm ngàn vạn kiếp Khó mà gặp được. Nay con thấy nghe, Lại được thọ trì Nguyện cầu thấu hiểu Ý thật của Phật. Kính nghe Đấng viên thông giáo chủ, Vẻ từ ái trăng tròn. Hầu Di Đà nơi Cực lạc phương Tây, Giúp Thích Ca cõi Ta bà uế trược. Ở trên núi báu lưu ly Ngự giữa sen hồng nghìn cánh, Quá khứ là Chánh pháp minh vương, Hiện nay là Quán âm tự tại, Ba mươi hai ứng rộng độ quần sinh, Bảy nạn, đa cầu, nhiều phương ứng vật. Sức mầu thù thắng Tán thán khôn cùng. Ngưỡng trông đức cả từ bi Rũ lòng thương tưởng. Hôm nay ngày … tháng … năm … Đệ tử … quy đầu Tam bảo, trì tụng chú Đại Bi, hồi hướng công đức cầu nguyện cho bản thân, cho thân nhân, cho chúng sinh, tất cả cùng được thành tựu đại bi thắng phước. Cúi mong Phật đức từ bi không thể nghĩ bàn, ban ơn gia hộ. Nam mô Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Cúi lạy Quán âm đại bi chủ, Nguyện lực sâu dày tướng hảo thân. Nghìn tay trang nghiêm khắp hộ trì. Nghìn mắt sáng ngời soi muôn nẻo. Mật ngữ phô bày trong thật ngữ, Bi tâm khơi dậy giữa vô tâm. Khiến con sớm trọn các mong cầu, Vĩnh viễn diệt trừ bao tội chướng. Long thiên thánh chúng thường gia hộ. Trăm nghìn tam muội trọn huân tu. Thọ trì, thân con quang minh tràng. Thọ trì, tâm con thần thông tạng. Rửa sạch trần lao nương biển nguyện, Siêu chứng bồ đề phương tiện môn. Con nay xưng tụng, thề quy y Sở nguyện như lòng thảy trọn đủ. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con chóng thông hết thảy pháp. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm chứng mắt trí huệ. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con chóng độ hết muôn loài. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm trọn phương tiện khéo. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con chóng lên thuyền bát-nhã. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm vượt qua bể khổ. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con chóng tròn giới định đạo. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm lên đỉnh niết bàn. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con chóng đến nhà vô vi. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh. Nguyện con nhìn núi đao, Núi đao tự gãy đổ. Nguyện con nhìn vạc dầu, Vạc dầu tự khô cạn. Nguyện con nhìn địa ngục, Địa ngục tự tiêu diệt. Nguyện con nhìn ngạ quỷ, Ngạ quỷ tự no đủ. Nguyện con nhìn tu la, Ác tâm tự dập tắt. Nguyện con nhìn súc sanh, Tự chứng thành đại trí. 8. Chú Đại Bi Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha. Trì tụng 3 lần, 7 lần, 21 lần, 49 lần hay 108 lần… bao nhiêu lần tùy ý. 9. Vãng Sinh Tịnh Độ Thần Chú Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tì ca lan đế, a di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. Trì tụng 3 lần, 7 lần, 21 lần, 49 lần hay 108 lần… bao nhiêu lần tùy ý. Phật A Di Đà thân sắc vàng Tướng tốt quang minh không ai bằng Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển Trong quang minh có vô số hoá Phật Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh Chín phẩm sen vàng lên bờ giác. Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Nam Mô A Di Đà Phật. 108 lần Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. 3 lần Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. 3 lần Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.3 lần Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 3 lần 10. Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm, Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm, át điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. Trì tụng 3 lần, 7 lần, 21 lần, 49 lần hay 108 lần… bao nhiêu lần tùy ý. 11. Hồi hướng Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời thường an lành, Tất cả các thời đều an lành, Nguyện đức Từ bi thường gia hộ. Nguyện tiêu ba chướng, trừ phiền não, Nguyện chơn trí huệ thường sáng tỏ, Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ, Kiếp kiếp thường tu bồ tát đạo. Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây, Chín phẩm hoa sen là cha mẹ, Hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh, Bất thối bồ tát là bạn hữu. Nguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả, Đệ tử và chúng sanh Đều trọn thành Phật đạo. 12. Tam Tự Quy Y Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng 1 lạy Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh tạng, trí tuệ như biển 1 lạy Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại 1 lạy Xong hết ta khoan đứng dậy mà hãy ngồi thiền, tịnh tâm khoản 10-20p. Lúc này ta có thể dùng tâm thức để xin hay khấn gì đó với các Ngài, và trong âm thầm các Ngài sẽ dạy bảo lại mình, cho mình năng lượng an lành lợi lạc. Theo Tâm Hướng Phật.! Tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật là ba phương pháp tu hành đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Đại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai có thể rời ba phương pháp Tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật có ý nghĩa gì?Phật tử cần phải học tụng Kinh, niệm Phật và trì Chú để lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt Kinh là đọc một cách thành kính những lời Đức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh. Trì Chú là nắm giữ một cách chắc chắn lời bí mật của Chư Phật. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Phật giáo, người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật. Nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng Kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh điển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về phép lạy gồm Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức. Vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường đồ phải niệm đủ Tam thế Phật– Niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Đức Phật hiện tại, cũng là Đức Phật Giáo chủ của chúng sinh.– Niệm Đức Phật A-Di-Đà, là niệm Đức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Đức Phật tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc.– Niệm Đức Phật Di-Lặc, là niệm Đức Phật vị miệng tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Đấng Từ phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình Mục đích của việc niệm PhậtNiệm Phật để đưa đến sự nhất tâmLàm sao để ta áp dụng niệm Phật trong các vấn đề sinh hoạt hằng ngày. Khi ta đang làm một việc gì đó, không thể nào chúng ta vừa làm rồi miệng lại niệm Phật cùng một lúc được, có khi lại gây ảnh hưởng vậy, khi làm bất cứ việc gì, chúng ta tập trung nhìn nhận rõ, đâu là đúng, đâu là sai, đâu là cái cần phải gạt lọc, đó là ta đã sống trong giây phút của tỉnh thức rồi, việc này đồng nghĩa với việc chúng ta niệm Phật để được giải thoátNiệm Phật là để được giải thoát, vậy từ giải thoát là gì? Chữ giải có nghĩa là mở, thoát là ra, nhưng đôi khi chúng ta không hiểu rõ rồi lại nhìn chữ giải thoát này ở một mức độ cao siêu xa vời. Chúng sinh luôn bị Tam độc Tham – Sân – Si chi phối trong lòng, do đó việc niệm Phật là làm sao thoát khỏi sự ràng buộc của ba yếu tố như trong cuộc sống, ta làm ra đồng tiền, có nhiều thì tiêu nhiều, có ít thì tiêu ít, tùy vào khả năng có được mà chúng ta sử dụng hợp lý và không bị đòng tiền lôi cuốn bản thân mình vào những con đường tội lỗi khác. Ta sẽ không bị dính mắc và lệ thuôc vào nó, thì lúc này chúng ta đã thoát khỏi sự ràng buộc của tham và làm chủ bản thân mình, như vậy mới thật sự niệm Phật giải thoát ngay ở trong hiện tại này mà không tìm một sự giải thoát ở đâu xa thoát nằm ngay ở trong tâm thanh tịnh của mỗi người. Tâm của ta có sự an lạc, giải thoát tâm hồn thì ngay đó ta sống với thế giới thanh tịnh của chư Phật. Chúng sinh ai cũng có Phật tính sáng suốt, nhưng bị vô minh che lấp, nên không nhận ra được tự tính sáng suốt của mình. Vì vậy, việc niệm Phật giúp ta trở về bản thể thanh tịnh của chính mình. Có nhiều người cũng nghĩ rằng, niệm Phật để được Đức Phật tiếp dẫn về một thế giới nào đó. Điều này vô tình lại làm chúng ta thiếu đi niềm tin vững chắc vào khả năng tu tập của chính kinh Đức Phật dạy, ví như chúng ta trồng một cây nằm ở hướng tây thì khi gió đến, nó sẽ ngã theo chiều của hướng tây. Cũng thế, nếu như hằng ngày ta luôn vun bồi và tạo nhiều công đức lành thì kết quả an lạc sẽ đến với ta và khi mất thân này chúng ta sẽ được tái sinh vào một cảnh giới an giống như người ăn cơm nếu ăn một bát thì no theo một bát, nếu ăn nhiều thì no nhiều, nhưng tự thân họ cũng có lương thực để an lòng. Do đó, tùy vào mức độ mà ta tu tập nhiều hay ít thì tự thân sẽ được sinh vào cảnh giới thích hợp với quá trình công phu tu tập của Phật để được vãng sinhVãng sinh là sự kết thúc của cuộc đời này để sinh qua một thế giới khác, hay nói nghĩa rộng hơn, đó là cách chuyển hướng thay đổi từ cách sống này sang một lối sống như trước giờ ta sống trong sự giận hờn, buồn phiền và không làm chủ được tâm hồn. Nhưng khi hiểu được sân là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ, lúc này chúng ta liền khắc phục sai lầm và thay đổi tích cực mạnh mẽ, đó là chúng ta đã chuyển đổi từ một cuộc sống sân hận thành một cuộc sống bao dung tha thứ, và đó cũng chính là vãng giống như một người ham hút thuốc nhưng khi phát hiện mình bị bệnh nên lập tức bỏ ngay sự ham muốn ấy, có nghĩa là người này đã thay đổi từ một thói xấu chuyển thành một đức tính tốt thì đó cũng gọi là vãng vậy, không cần phải chết mới được vãng sinh mà ngay trong đời sống hiện tại ta cũng đã được vãng sinh rồi. Vì vậy, vãng sinh là sự thay đổi từ những đức tính xấu ác của con người để trở về con đường thánh thiện, từ một người với thói quen đầy sự ích kỷ, nhỏ nhen trở thành một người có tấm lòng bao dung, độ lượng và cao hơn nữa đó là từ phàm phu bước lên một bậc của thánh giả tu tập, niệm Phật cần phải thực tập và áp dụng việc niệm Phật vào trong đời sống hằng ngày để chúng ta tìm được nguồn an lạc hiện thực và luôn luôn trong thế giới của Đức Phật, đoạn dứt những phiền não để trở về bản thể thanh tịnh vốn có của mình, và đó mới là mục đích cao cả của việc niệm thêm Niệm Phật là gì? Vì sao phải niệm Phật? Điều cần biết khi niệm PhậtTrích nguồn Kinh Phổ Môn là gì mà vào những dịp khánh hỷ, cầu an thường được các gia đình đi cầu nguyện, tụng kinh mong ước cho mưa thuận gió hoà. Ý nghĩa của loại kinh này ra sao? Nội dung như thế nào?Hãy tham khảo bài viết sau để hiểu hơn về kinh Phổ Môn. Danh Mục Nội Dung1. Kinh Phổ Môn là gì?2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn?6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà?2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn 1. Kinh Phổ Môn là gì? Là bài kinh được nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Loại kinh này được gọi với tên thông thường là kinh quan Thế Âm, Phẩm Phổ Môn. Qua bài kinh để giới thiệu “quán chiếu” cuộc đời nhằm cho chúng sinh giác ngộ, giải thoát bằng phương pháp tu tập phổ biến. Bản kinh Phổ có nguyên tắc viết bằng chữ Sanskrit. Hiện nay được dịch theo 3 bản chữ Hán như sau Bản đầu tiên của ngài Trúc Pháp Hộ có tựa đề”Quan Thế Âm Bồ tát”. Đây là tác phẩm thứ 23 nằm trong Chánh Pháp Hoa Kinh. Bản thứ 2 của ngài Cưu ma la thập dịch có tựa đề “Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm”. Tác phẩm thứ 25 trong kinh Hoa Sen Chánh Pháp. Bản thức 3 được dịch bởi ngài Xà na quật đa và Đạt ma cấp đa dịch có tựa đề “Quan Thế Âm bồ tát Phổ Môn Phẩm. Giống với tên bản dịch của ngài Cưu ma la thập. Bản nằm trong phẩm thứ 24 của Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh. Sách kinh Phổ Môn Cả ba bản dịch chỉ có bản thứ 3 là đầy đủ 2 phần văn xuôi và thi hoá phần văn xuôi. Khi bản dịch thứ 3 ra đời được người dân sử dụng đến nay. Bản dịch tiếng Việt được lấy từ bản chữ Hán của Cưu ma la thập, được giữ nguyên phần thi hoá văn xuôi. Bởi nội dung có trong phần thi hoá văn xuôi không có trong phần văn. Ngược lại, nội dung trong phần văn sẽ không có trong phần thi hoá văn xuôi. *** Tìm hiểu thêm Nghi thức khai quang điểm nhãn là gì ? Ý nghĩa của khai quang điểm nhãn 2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn Bài kinh Phổ Môn có tính ẩn dụ cao. Thế nên để hiểu được ý nghĩa của bài kinh cần nghiên cứu sâu sắc. Bởi đọc kinh không chỉ nhìn chữ để tụng kinh mà quan trọng là chúng ta phải hiểu được ý nghĩa bên trong. Tụng kinh không đồng nghĩa với điều ước đạt được. Bồ tát không phải là thần linh có thể cứu nguy. Do đó mà mục tiêu của việc tụng kinh không phải để cầu xin, van xin sự giúp đỡ. Cốt lõi của việc tụng kinh là cách chúng ta tu tập quán chiếu cuộc đời. Phương pháp này giúp con người khởi duyên để tự giải thoát khỏi đau khổ. Bản thân sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, thanh tịnh hơn. Ngoài ra, ý nghĩa của kinh Phổ Môn là sự bao dung, tình thương mà Bồ tát ban cho chúng ta thông qua cách thức độ sinh. Mỗi người tu tập sẽ khác nhau, dựa vào căn cơ khác nhau. Và ứng thân với các vị Bồ tát khác nhau. Kinh Phổ Môn là phương pháp giúp con người thoát khỏi bề khổ Không có vị Bồ Tát nào cứu giúp chúng ta cầu gì, ước gì sẽ được đó. Bởi luật nhân quả giống nghiệp báo. Bài kinh sẽ chỉ cho chúng ta hiểu trong cuộc đời mỗi con người có 5 loại âm thanh hiện hữu. Đó là Diệu Âm, Phạm Âm, Quán Thế Âm, Hải Triều âm và Siêu việt thế gian Âm. Đổi lại sẽ có 5 pháp quán chiều Chân Quán, Bi Quán, Từ Quán, Thanh tịnh quán và Quảng đại trí tuệ quán. Dựa vào đó mà chúng ta có thể giúp bản thân tự giải thoát chính mình ra khỏi bể khổ. Tu tập, tự cứu mình và vị tha nhân khỏi bất hạnh. 3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn Trong bài kinh Phẩm Phổ Môn sẽ có 3 nội dung chính như sau Thần lực trì danh Quan Âm. Cứu thế độ sinh qua 33 ứng thân. Phương pháp ngũ âm, ngũ quán. Nội dung của kinh Phổ Môn đầu tiên là giới thiệu sự tương giao trong nhân quả. Giữa Quan thế Âm bồ tát với chúng sinh. Quan Thế Âm là người ban niềm vui cho con người. Là điểm tựa, nuôi dưỡng trí tuệ, tu thân tích đức, nỗ lực trở thành người thánh đức. 4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn Khoá tụng kinh Phổ Môn được chia thành 3 phần bao gồm Phần đầu tiên Nghi thức dẫn nhập có 5 tiết mục là nguyện hương, tán hương, đảnh lễ ba ngôi báu, phát nguyện trì kinh, tán dương giáo pháp. Phần 2 Chính kinh. Giới thiệu hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Phần 3 Sám nguyện và hồi hướng. Ban đều sẽ học bài Bát Nhã Tâm Kinh. Bài học giúp người tụng kinh độc diệt từ tất cả các đau khổ trong cuộc đời. Phương pháp được áp dụng ở phần này là quán chiếu năm yếu tố để hình thành con người. Khi kể đến 12 lời nguyện Bồ Tát Quan Thế Âm giúp người học tu học hiểu về bản nguyện cứu thế độ sinh. *** Tìm hiểu thêm Linh thú cát tường là gì? Cách chọn linh thú phù hợp theo tuổi và mệnh 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn? Người ta thường đi tụng kinh Phổ Môn vào các dịp chủ yếu như Cầu an. Cầu quốc thái dân an. Cầu khỏi bệnh. Cầu tai qua nạn khỏi. Cầu gia đạo bình an. Cầu mưa thuận gió hoà. Hoặc có thể tụng kinh Phổ Môn vào các dịp khác như Khánh hỷ. Lễ khai trường. Lễ khởi công. Lễ an vị Phật. Lễ mừng thọ, chúc thọ. Lễ đáo tuế. Lễ sinh nhật. Đây đều là những dịp đặc biệt trong đời sống con người. Có vai trò quan trọng giúp đời sống đi lên, phát triển hơn. 6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn Bồ Tát Quan Thế Âm khởi đại nguyện cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Nên khi gặp khổ nạn con người thường xưng niệm danh hiệu ngài nhằm cầu mong sự an ổn. Sự tương giao giữa 2 tâm thức giúp chúng sinh đạt được sự an ổn. Để tụng kinh Phổ Môn đúng cách và hiệu quả cần lưu ý những điều sau 1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà? Nếu như gia đình bạn có bàn thờ Phật ở nhà có thể thực hiện việc cầu an tại gia là tốt nhất. Trường hợp nơi ở chật hẹp, ồn ào, điều kiện không cho phép có thể tiến hành cầu an ở chùa. Dù là cầu an ở nhà hay ở chùa đều phải chuẩn bị thật chu đáo, trang nghiêm. Những vật cần thiết trong lễ cầu an phải có như hoa quả, hương đèn,… Chúng ta dâng cúng những gì, tốt hay xấu, nhiều hay ít,.. không quan trọng. Mà điều cốt yếu là mọi thứ từ chí thành, nghiêm cẩn trong khả năng cho phép. Bản Kinh Phổ Môn bán chạy trên thị trường 2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? Để đạt hiệu quả thành công, trước khi tụng kinh Phổ Môn cần lau dọn, bày bàn thờ Phật trang nghiêm, sạch sẽ. Tốt nhất nên tự mình làm không sai bảo người khác. Trừ trường hợp những người tham gia chuẩn bị có tâm nguyện cầu an, là con cái trong gia đình. Sau đó, gia chủ đứng trước bàn thờ Phật chí thành lễ bái. Lúc này nghi thức cầu an chính thức bắt đầu. Tụng phẩm kinh Phổ Môn được trình bày rõ ràng, nghi thức trang nghiêm. 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn Để buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra thành công, đạt hiệu quả cao thì gia chủ cần lưu ý các điều sau Có thể tụng kinh theo bản dịch tiếng Việt để tạo hiệu quả tốt, hiểu được ý nghĩa của từng câu kinh. Cần tập trung hết sức, suy ngẫm về ý nghĩa của các câu kinh, tiếng kệ. Điều này giúp chúng ta hòa quyện với không khí trang nghiêm buổi tụng kinh. Từ đó thấm đẫm được ý nghĩa các câu kinh trong tâm trí. Chuẩn bị mọi thứ thật đầy đủ, cẩn thận, ăn mặc trang nghiêm. *** Tìm hiểu thêm Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân là gì? Đặc điểm của Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân Với các lưu ý trên giúp buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra theo đúng mong muốn, đạt hiệu quả cao. Qua những chia sẻ trên bạn hiểu được kinh Phổ Môn là gì? Đồng thời biết được ý nghĩa và nội dung của bài kinh này. Từ đó vận dụng một cách khoa học. Khái niệm – xuất xứ- công năng – cách hành trì ___________________ THẦN CHÚ LÀ GÌ? Thần chú, còn gọi là chân ngôn, hay Đà La Ni hoặc Đà Ra Ni hiểu một cách nôm na, đó là những những mật mã bí ẩn hàm chứa chân lý và năng lượng tinh hoa của Vũ trụ, được các đức Phật và các vị Bồ Tát dùng trí tuệ của các ngài dồn nén lại trong những âm thanh cô đọng, từ ngữ cô đọng, tạo ra những câu thần chú hoặc những bài thần chú. Vì được dồn nén, cô đọng lại, nghĩa lý trong mỗi câu từ của thần chú là trùng trùng điệp điệp, sâu xa thăm thẳm không thể dùng tư duy của phàm phu mà hiểu được, chỉ có trí tuệ của các đức Phật, các vị đại Bồ Tát mới hiểu đầy đủ và đúng nghĩa của thần chú. Vì lẽ đó, thần chú không có dịch nghĩa, người trì tụng chỉ cần đọc với niềm tin mà không cần hiểu nghĩa, là đã có thể phát huy công năng của thần chú. Điều này khác với pháp môn đọc tụng kinh điển, cần phải hiểu rõ nghĩa mới có thể thực hành. Đọc với niềm tin mà chẳng hiểu nghĩa, việc này giống như khi chúng ta bị bệnh, chúng ta ra gặp dược sĩ, mua thuốc, uống vào là có thể khỏi bệnh. Các chuyên gia, giáo sư, tiến sĩ, dược sĩ… với trình độ chuyên môn cao thâm về y học, đem hiểu biết của mình điều chế các dược liệu với tỉ lệ chính xác, cùng với quy trình điều chế phức tạp để tạo ra các viên thuốc. Bệnh nhân muốn hết bệnh, chỉ cần uống thuốc với liều dùng phù hợp, thì sẽ khỏi bệnh dù chẳng hiểu các viên thuốc ấy thành phần là gì, được điều chế như thế nào. Không phải vì các giáo sư tiến sĩ của ngành y không muốn cho bệnh nhân hiểu rõ thành phần và cách điều chế của thuốc trước khi uống. Mà là vì việc đó quá khó khăn với trình độ của bệnh nhân. Cần mất rất nhiều năm, thậm chí là nhiều chục năm nỗ lực học tập nghiên cứu mới đủ trình độ để hiểu rõ thành phần cấu tạo, cách thức điều chế, nguyên lý hoạt động của một viên thuốc, nếu phải đợi lâu như thế để hiểu rõ, rồi mới uống thuốc, vậy thì bệnh nhân đã chết cả hết rồi. Vì thế, nên bệnh nhân chỉ còn một cách tin tưởng vào bác sĩ, vào hãng dược, uống thuốc theo chỉ dẫn mà không cần hiểu gì, là vẫn có thể khỏi bệnh. Việc này lại cũng giống như dùng chìa khóa để mở hòm kho báu đang khóa kín. Người được trao cho chiếc chìa khóa, không cần phải biết bên trong ổ khóa cấu tạo như thế nào, các trục bi, rãnh khớp sắp xếp như thế nào, chỉ cần đút chìa vào ổ khóa, vặn một cái, kho báu mở ra là có thể đem vàng bạc, châu báu đi tiêu xài. Cũng như vậy, những người có duyên, quyết định chọn pháp môn trì tụng thần chú để tu tập, thì chỉ cần tin tưởng vào trí tuệ và năng lực của các đức Phật và Bồ Tát, đã tổng trì ra các thần chú, y theo đó đọc tụng thì sẽ được kết quả vi diệu. Nếu không tin, vậy tốt nhất chúng ta nên chọn một pháp môn khác, Phật Pháp có rất nhiều pháp môn khác nhau cho chúng ta lựa chọn, không hợp môn này ta có thể chọn một khác, điều đó cũng không sao cả. Cũng phải nói thêm, thần chú không phải chỉ duy nhất đạo Phật mới có, mà các tôn giáo khác, các tín ngưỡng dân gian cũng có thần chú, nổi bật có thể kể ra như các thần chú của Lão giáo mà các đạo sĩ thường dùng để trừ ma, hay như các thần chú của thầy bùa, thầy Pháp trong dân gian. Điều khác biệt của thần chú trong Phật giáo, là luôn đem tới những điều tốt lành cho người trì tụng, không sợ phản ứng phụ, và luôn chứa đựng hạt giống Bồ Đề, chứa đựng những chủng tử của Phật, khiến người trì tụng luôn luôn tăng trưởng duyên lành, cho đến một tương lai xa xăm nào đó có thể thành Phật. – Vậy các thần chú của đạo Phật hiện nay được lưu truyền như thế nào? Khởi thuỷ, vào thời Đức Phật, hoặc chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc các đại Bồ Tát sẽ tuyên thuyết ra các thần chú. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, ngài A Nan đã kết tập các thần chú lại trong những kinh điển, không chỉ chứa câu thần chú, mà còn miêu tả rõ hoàn cảnh mà Đức Phật hoặc các vị Bồ Tát thuyết ra thần chú, cùng với công năng, cách hành trì… những thần chú được công khai truyền dạy đó, gọi là thần chú phổ thông, ai có duyên muốn đọc tụng cứ đọc. Ví dụ như chú Đại Bi do Quán Thế Âm Bồ Tát thuyết trong kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, chú Lăng Nghiêm được đức Phật Thích Ca thuyết trong kinh Lăng Nghiêm, chú Bảo Khiếp Ấn được Phật Thích Ca thuyết trong kinh Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà-la-ni. Chú Vãng Sinh do Phổ Hiền Bồ Tát thuyết trong kinh Niệm Phật Ba La Mật… cùng với hàng ngàn thần chú được lưu truyền công khai trong rất nhiều kinh điển khác. Nếu muốn biết rõ chúng ta hãy dành nhiều thời gian nghiên cứu trong các tạng kinh của Đức Phật để lại, không nghiên cứu mà biết rõ hết được, nó là chuyện hái sao trên trời. Tuy nhiên, có rất nhiều thần chú mang đặc thù riêng, không phải ai cũng được phép đọc tụng, Đức Phật và các vị Bồ Tát chỉ truyền thụ riêng cho những người đủ căn duyên, đủ trình độ, đủ đức hạnh, và lưu truyền bí mật từ thế hệ này sang thế hệ khác, gọi là mật chú. Vì là bí mật, nên chúng ta cũng không cần tìm hiểu sâu làm gì, hàng ngàn thần chú phổ thông đã là quá đủ để mọi người hành trì theo. CÔNG ĐỨC, LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI ĐỌC TỤNG THẦN CHÚ Mỗi một thần chú sẽ chữa đựng những công năng riêng, đăc thù riêng, xong thông thường sẽ có chung các đặc tính sau 1. Tiêu trừ nghiệp chướng Nhờ đó người đọc có thể thoát được các hoạn nạn, tai ương, bệnh tật, đau khổ… 2. Tăng trưởng phước lành Nhờ vậy người đọc có thể gặp được nhiều may mắn, tăng thêm trí tuệ, đức hạnh, gặt hái nhiều điều tốt lành… 3. Tạo ra công năng đặc thù của thần chú Ví dụ như chú Lăng Nghiêm có công năng trừ tà, phá ma chướng cực mạnh, chú Vãng sinh giúp người đọc tiêu nghiệp và sớm được vãng sinh về Tịnh Độ. Chú Biến Thực có công năng biến phẩm vật ra thật nhiều, chú Đại Bi là vạn năng, chữa bệnh cũng được, tăng trưởng trí tuệ, thần thông cũng được, mau chóng đắc đạo cũng được. Muốn biết rõ công năng của từng thần chú như thế nào, chỉ có cách là đọc kỹ trong kinh điển thuyết ra thần chú đó. 4. Chiêu cảm sự gia hộ của vị Phật, vị Bồ Tát thuyết ra thần chú đó. Đây là một điều vi diệu mà không phải pháp môn nào cũng có. Hầu hết các pháp môn trong đạo Phật, người tu phải tự dựa vào sức mình, gọi là tự lực. Nỗ lực hành trì bao nhiêu, thì được hưởng thành tựu bấy nhiêu. Riêng có 2 pháp môn, là trì tụng thần chú, và niệm danh hiệu chư Phật – Bồ Tát, sẽ nhận được thêm tha lực. Tha lực là như thế nào ? Khi trì tụng thần chú nào đó, hay niệm danh hiệu vị Phật – Bồ Tát nào đó, ngoài những công đức do nỗ lực tụng niệm mà có được, người tu còn nhận được sự gia hộ đặc biệt của vị Phật hoặc Bồ Tát – vị bổn tôn đã thuyết ra thần chú đó, cộng thêm rất nhiều thiện thần, hộ pháp trợ giúp cho sớm thành tựu, gọi là tha lực. Vừa có công đức do nỗ lực của bản thân mình, vừa nhận thêm tha lực của chư Phật – Bồ Tát, bởi thế nên những người tu theo hai pháp môn này, thường nhanh gặp được những linh ứng vi diệu. 5. Tăng trưởng Bồ Đề Tâm Hiểu một cách đơn giản, Bồ Đề Tâm là hạt giống ban đầu để có thể trở thành Phật. Một khi đã gieo trồng, hạt giống này vĩnh viễn không bị hư hoại, mà chậm rãi nảy mầm, lớn lên dần dần. Trải qua vô số kiếp, dù có đầu thai luân chuyển nhiều kiếp không còn nhớ gì nữa, dù có được làm người, hay phải phải làm súc sinh, ngạ quỷ, phải vào địa ngục, Bồ Đề Tâm cũng không mất đi, mà sẽ âm thầm dẫn dắt ta hướng về cái thiện, hướng về Phật Pháp để tu hành, tích lũy công đức lớn dần cho đến khi thành Phật mới thôi. 4 đặc tính đầu tiêu nghiệp, tăng phước, công năng đặc thù, gia hộ là hiện tại có thể thấy được, nhiều hay ít tùy thuộc mỗi người, còn đặc tính thứ 5 gieo chủng tử Bồ Đề phải vô lượng kiếp sau mới thấy. 4 đặc tính đầu cần phải đáp ứng khá nhiều yêu cầu khi hành trì mới đạt được, phạm phải những điều cấm kỵ sẽ mất đi cụ thể sẽ nói rõ ở bài sau còn đặc tính thứ 5, hễ có đọc là chắc chắn đã gieo được giống Bồ Đề Tâm, chẳng bao giờ mất. Với người trí tuệ có hạn, thích những thành quả đến ngay, thì sẽ coi 4 đặc tính đầu là quan trọng hơn đặc tính thứ 5. Nhưng với người có trí tuệ nhìn xa, xa đến vô lượng kiếp, thấu hiểu được sự lên xuống, được mất vô thường của mọi thứ, sẽ hiểu ra đặc tính thứ 5 – gieo chủng tử Bồ Đề để tương lai có thể thành Phật mới thực sự là điều trọng đại. ________________ HÀNH TRÌ CỤ THỂ TRÌ CHÚ LÀ LÀM SAO ? Đầu tiên bạn cần chọn cho mình một thần chú nào đó để hành trì. Mỗi người sẽ phù hợp với một thần chú khác nhau chứ không có bất kỳ quy định mang tính áp đặt nào. Bạn nên đọc qua nhiều kinh điển, tìm hiểu về tính chất, lợi ích của nhiều thần chú khác nhau. Sau đó thử đọc tụng mỗi thần chú một thời gian, rồi thông qua cảm quan của chính mình, chọn lấy một, hoặc nhiều thần chú mà bạn cảm thấy phù hợp nhất để đọc tụng hàng ngày. Cách thức trì tụng Đơn giản là bạn cứ đọc thôi. Có thể có một vài cách khác như biên chép, xong phổ biến nhất thì vẫn là đọc tụng. Một lần đọc hết từ đầu đến cuối một thần chú thì gọi là một biến. MC -Dạ xin cho hỏi mỗi lần trì chú mình phải đọc bao nhiêu biến ạ ? -Một buổi có thể đọc được bao nhiêu biến tùy tâm, càng nhiều thì càng tốt, càng nhiều công đức, không có luật nào cấm bạn đọc nhiều quá. Và cũng không ai phạt bạn nếu bạn nghỉ không trì chú cả. Chỉ là công đức sẽ tăng hoặc giảm, lợi ích bạn nhận được nhiều hay ít mà thôi. Vậy nên nếu bạn hỏi tôi phải trì bao nhiêu biến, tôi sẽ hỏi ngược lại bạn rằng Bạn muốn được bao nhiêu công đức ?’ Do cần duy trì đọc đi đọc lại như thế, nên việc đọc thần chú mỗi ngày gọi là trì chú. Ban đầu chưa thuộc thì cứ nhìn giấy đọc, khi thuộc rồi thì thôi. Bạn cứ đọc bình thường, không cần ngân nga theo giai điệu nào cả, miễn đọc rõ ràng là được. Tốc độ đọc bạn tự điều chỉnh nhanh chậm sao cho phù hợp với mình. Khi đọc thì tâm chú ý lắng nghe âm thanh thần chú của mình đang đọc, đó là cách dụng tâm căn bản nhất. Niệm Phật và tụng kinh cũng có cách dụng tâm giống như vậy, mình đang niệm gì, tụng gì, tâm biết rõ như vậy, không nghĩ ngợi chuyện khác. Xong thực tế không có đơn giản, nếu tâm vọng tưởng bay bổng nhiều quá, miệng đọc mà đầu toàn nghĩ chuyện khác, thì đến khi nào sực nhớ ra, bạn hãy kéo cái chú ý trở lại, tập trung nghe âm thanh thần chú. Việc này không có dễ, nếu cố gắng rồi mà mãi bạn vẫn không sao tập trung được, bạn cũng đừng có nản. Cho dù bạn mất tập trung, thì có đọc vẫn cứ luôn có công đức, không nhiều thì ít, luôn tốt hơn là không. Đừng có bỏ tu chỉ vì không tập trung được. Về tư thế, tốt nhất thì bạn nên quỳ, chắp tay mà đọc chú. Nhưng đừng máy móc, các tư thế khác như ngồi, đi, đứng cũng vẫn được. Với người tu hành lâu sẽ được học về cách kiết ấn tay, xong với người mới bắt đầu cứ chắp tay là được, đừng đặt nặng đến việc bắt ấn như thế nào. Tu tập nhiều năm, đủ duyên tự nhiên sẽ có người chỉ, không đủ duyên mà cứ cố tình tìm hiểu về kiết ấn, đó mới là nguy hại. Yêu cầu căn bản Mức độ đầu tiên của người trì chú, chỉ có một yêu cầu căn bản, đây là mức tối thiểu bạn phải tuân thủ khi đọc thần chú CHỈ ĐỌC THẦN CHÚ THÀNH TIẾNG KHI ĐẢM BẢO TRANG PHỤC CHỈNH TỀ, TƯ THẾ NGAY NGẮN, KHÔNG CÓ NẰM. CÒN LẠI NHỮNG LÚC TRANG PHỤC KHÔNG CHỈNH TỀ, như nam cởi trần quần đùi, nữ váy ngắn, áo hai dây, sát nách, hay khỏa thân… hay ở những nơi bất tịnh như nhà vệ sinh, làm những việc tế nhị không tiện nói ra, thì chỉ trì chú thầm trong tâm thôi. Khi nam nữ ân ái phải dừng hẳn không tụng niệm. Hãy cố gắng hiểu rõ yêu cầu này, nếu vi phạm sẽ thành tội bất kính với thần chú, các vị Hộ Pháp sẽ có biện pháp trừng phạt. Ngược lại, nếu không rõ yêu cầu cơ bản này, sẽ rơi vào bệnh máy móc, hơi chút lại sợ thế này được không, thế kia được không, đi hỏi hết người này đến người kia, tốn công mà cũng chẳng bao giờ trả lời hết được cho mọi trường hợp. Để giúp bạn tránh rơi vào bệnh máy móc, cũng như để hình dung mức độ nặng nhẹ khác nhau của từng yếu tố liên quan đến việc trì chú, Quang Tử sẽ tạm đặt ra một số quy ước với tỉ lệ % trong video này, để bạn dễ hình dung. Lưu ý, các tỉ lệ % này chỉ là tương đối, giúp bạn dễ hiểu, chứ không phải thực tế luôn chính xác tuyệt đối như vậy. Giả sử có một người bắt đầu thực hành trì thần chú, ngoài việc giữ được YÊU CẦU CĂN BẢN nói trên, anh ta không có thêm bất cứ gì khác. Cụ thể hơn, anh ta đi ngoài đường, quần áo chỉnh tề, vừa đi vừa lầm rầm đọc một câu thần chú mới học trên mạng. Ngoài ra, anh ta chưa Quy Y nên cũng không biết giữ giới là như thế nào. Đi ngoài đường nên không có bàn thờ gì cả. Anh ta ăn mặn, cũng chẳng kiêng khem gì. Vừa đọc thần chú, đầu anh ta lại vừa phân tâm nghĩ đến việc sếp mới giao ở công ty, chẳng tập trung gì cả. Như vậy thì anh ta có được công đức gì chăng ? Chắc chắn là có, hễ cứ giữ đúng yêu cầu căn bản, thì có đọc thần chú là phải có công đức, không nhiều thì ít. So với một người khác, vì dập khuôn máy móc, cho rằng muốn trì chú là phải quỳ trước ban thờ Phật, phải có chuông có mõ, phải thế này thế kia, rất nhiều… Khi không đủ các tiêu chuẩn đó thì nhất định không trì chú. Xong không đọc thì cũng chẳng có tí công đức nào, là thua đứt so với người có đọc trên kia, đó là cái dở của tính máy móc, dập khuôn. Chúng ta sẽ tạm quy ước, lượng công đức có được khi một người đọc hết một bài thần chú, ở mức thấp nhất, chỉ vừa đủ đảm bảo YÊU CẦU CĂN BẢN đã nói ở trên thôi, không có thêm yếu tố gì khác, ở đây ta quy ước coi đó là 100%. MC -Vậy có cách nào để anh ta tăng thêm công đức của mình lên thành 200%, 300% …không ạ ? • Tin vui là có, và có rất nhiều yếu tố từ dễ đến khó để anh ta tăng công đức lên. Cách đầu tiên, rõ ràng và dễ hiểu nhất, là đọc nhiều lần. Đọc một biến thần chú thì có công đức của một biến. Đọc 2 biến thì công đức tăng gấp đôi, 3 biến tăng gấp 3, 21 biến tăng gấp 21 lần… và không có giới hạn nào cả ngoài giới hạn của sự kiên trì trong chính bạn. • Tiếp theo, nếu anh ta thêm được một yếu tố bàn thờ trang nghiêm. Nghĩa là hoặc anh ta đến chùa ở trước tượng Phật, hoặc về nhà nơi có sẵn bàn thờ Phật mà trì chú, thì mỗi biến anh ta sẽ tăng thêm được khoảng 10% công đức so với mức căn bản. Như vậy, mức căn bản ban nãy ta quy ước là 100% , giờ + thêm 10%, là = 110%. • Tiếp nữa, nếu mỗi tháng anh ta ăn chay được 10 ngày vào những ngày Thập Trai, thì tháng đó, mỗi biến thần chú anh ta đọc tụng, sẽ tăng thêm khoảng 10%. Vậy, mức căn bản 100% + 10% do đọc trước bàn thờ trang nghiêm + 10% do ăn chay tháng 10 ngày = tổng cộng 120 % trên mỗi biến. • Tiếp tục, nếu trong khi trì chú, anh ta cảm thấy rất hân hoan, vui thích, gọi là hoan hỉ, vậy thì công đức của anh ta sẽ tăng thêm 10% mỗi biến. Cộng lại, 100% của mức căn bản + 10% ăn chay tháng 10 ngày + 10% bàn thờ trang nghiêm + 10% tâm hoan hỉ = 130 % mỗi biến. Ngoài 3 yếu tố bàn thờ, ăn chay Thập Trai, hoan hỉ kể trên, còn có hàng chục yếu tố khác thậm chí còn tăng công đức nhiều hơn đến 30%- 50% trên mỗi biến, chúng ta sẽ quy ước gọi là yếu tố tăng công đức. MC – Vậy anh ta phải tuần tự đáp ứng hết các yếu tố đó phải không ạ ? -Không ! Anh ta không nhất thiết phải đáp ứng hết, không có máy móc như vậy, mà là tùy hoàn cảnh mỗi người, thêm được yếu tố nào thì hưởng thêm công đức của yếu tố đó, còn không làm được thì thôi. Cái cần phải lo là cái này. Ngoài các Yếu tố tăng công đức, chúng ta cũng có một loạt Yếu tố giảm công đức, nếu phạm phải, mỗi biến công đức sẽ bị giảm đi. Ví dụ, hàng ngày anh ta thường ăn tỏi, hành, hẹ, thì mỗi biến, anh ta sẽ bị giảm đi 90% công đức. Vậy 100% công đức mức căn bản – 90% do ăn hành tỏi = thì còn được 10% công đức. MC – Chà, yếu tố hành tỏi này cũng đáng ngại thật, làm tiêu hao đến 90% công đức có được, thảo nào trì chú mãi không thấy chuyển biến gì. Vậy phải chăng, nếu phạm nhiều điều quá thì càng đọc công đức của ta sẽ bị âm đi không ạ ? – Rất may là không. Ngoài hành tỏi, hay đúng hơn là Ngũ vị tân ra, thì ta còn 3 loại yếu tố giảm công đức nữa. Tuy nhiên, bạn đừng lo là phạm phải nhiều yếu tố giảm trừ thì sẽ bị âm, chuyển thành có tội, có quả báo được. Không, cùng lắm thì bạn chỉ được hưởng rất ít công đức mà thôi, chứ không bị âm, đang tạo phước mà chuyển thành quả báo sao được. Như ở phần trước Quang Tử đã nói. Đó là công đức của việc trì chú sẽ có 5 loại. Nếu phạm phải các yếu tố giảm công đức, thì cũng chỉ làm giảm bớt, hoặc mất đi 4 lợi ích đầu. Con lợi ích thứ 5 tăng Bồ Đề tâm luôn luôn vẫn có phần. Vậy nên bất luận như thế nào, bạn cũng hãy cố gắng duy trì. MC – Vậy xin cho biết có tất cả bao nhiêu yếu tố tăng công đức, bao nhiêu yếu tố giảm công đức, và xin phân tích làm rõ ạ. Về các Yếu tố tăng công đức có 18 yếu tố. Thấp thì tăng được 5%, nhiều thì tăng đến 50%. – Mức 5%, có yếu tố Trang phục chỉnh tề – Mức 10%, có 3 yếu tố + Hoan hỉ + Bàn thờ trang nghiêm + Ăn chay thập trai – Mức 20%, có 6 yếu tố + Căn cơ nhiều kiếp + Thần chú bổ trợ + Đọc to – rõ ràng + Chuyên nhất + Đọc chuẩn âm Phạn + Số lượng nhiều – Mức 30%, có 5 yếu tố + Giữ nghêm giới luật + Tập trung + Ăn chay trường + Từ bi – đức hạnh + Kiên trì – Mức 40%, có yếu tố Nghiệp nhẹ phước lớn – Mức 50%, có 2 yếu tố + Đức tin tuyệt đối + Tâm thành kính Lưu ý đây chỉ là dành cho người hành trì ở mức độ phổ thông, còn các bậc hành giả Mật Tông mật truyền sẽ còn nhiều yếu tố phức tạp khác như quán đảnh, kiết đàn, kiết ấn, nghi thức cúng dường . nhưng chỉ nội bộ mới biết, không có truyền ra ngoài, và ta cũng không cần tìm hiểu làm gì. 18 yếu tố sau đây là cũng đủ trở thành thách thức với hầu hết mọi người rồi. Về các Yếu tố giảm công đức, có 4 yếu tố, có thể giảm từ 10 -90% công đức. – Ăn ngũ vị tân giảm từ 10 -90% – Phạm các ác nghiệp giảm từ 10 -90% – Kinh chú thiếu chữ giảm từ 20 -70% – Nghi ngờ giảm từ 50 -99% Xin nhắc lại lưu ý, các tỉ lệ % này chỉ là tương đối, giúp bạn dễ hiểu, chứ không phải thực tế luôn chính xác tuyệt đối như vậy. Mỗi người hoàn cảnh, căn cơ khác nhau, sẽ có sự giao động tăng giảm % không thể luôn chính xác. Cụ thể từng yếu tố như thế nào, mời bạn xem trong video đăng kèm bài viết này nếu không thấy, bạn có thể tìm trên kênh Youtube Quang Tử với từ khóa Thần chú hướng dẫn cách hành trì’ để xem với phần phần phân tích của một vị Chú sư Mật Tông. ______________________ Phật Pháp vi diệu nhưng rộng lớn quá, khiến bạn không biết bắt đầu từ đâu ? Hoặc bạn đã tìm hiểu nhiều xong vẫn còn cảm thấy chưa nắm được những điểm mấu chốt để áp dụng là những điểm nào ? Chính vì vậy, Quang Tử đã tóm gọn lại những bài viết mang tính then chốt, chứa đựng những giáo lý mang tính ứng dụng thực tế cao, được nhiều người quan tâm trong thời đại này, mà bất cứ người nào cũng cần nắm rõ, làm hành trang căn bản, để ứng dụng hóa giải mọi khổ đau của cuộc đời. 21 bài viết và video trong fanpage Facebook này, 21 chủ đề khác nhau, tuy chẳng là gì so với biển học mênh mông của Đạo Phật, xong hi vọng sẽ giúp bạn thỏa mãn khao khát tìm hiểu, nắm vững yếu chỉ then chốt. Hãy bấm vào link bên dưới và lần lượt khám phá từng bải viết. 21 BÀI HỌC THEN CHỐT Tụng là đọc, tụng. Trì là hành trì. Kinh là lời Phật dạy được khẩu truyền, sau lưu lại thành văn bản lưu ý tam sao thất bổn. TỤNG KINH là đọc, tụng Kinh văn nhằm để hiểu thấu đáo lời Phật dạy trao truyền qua đó. Sau khi dùng Chánh kiến tư duy tận tường thấu đáo, hành giả ứng dụng – hành trì lời Phật dạy trong đời sống thường nhật, gọi là TRÌ KINH. Tụng Kinh là VĂN. Tư duy thấu đáo, hiểu rõ ngọn nguồn ý Kinh là TƯ. Trì Kinh là TU. Đó chính là VĂN – TƯ – TU mà Đức Phật đã từng dạy. Nếu tụng Kinh mà không dùng Trí huệ – Chánh kiến để tư duy thì chỉ là đọc tụng suông, tức VĂN, không được ích lợi gì! Một đứa trẻ biết đọc cũng có thể tụng Kinh điển làu làu không thua kém! Rõ ràng lợi ích đã không có nhưng cớ sao hiện nay đa phần Phật tử lại lầm rằng tụng Kinh càng nhiều, phước càng lớn? Đáng buồn hơn khi nhiều người nghĩ rằng ai tụng hay, nhớ nhiều Kinh văn thì người đó tu giỏi, rồi tự đắc khoe khoang hay thầm cười mãn nguyện mà không hề biết rằng mình đang lạc lối chớ nào có tu hành, Đạo còn dịu vợi xa. Nếu tụng Kinh VĂN mà dùng Trí huệ – Chánh kiến để tư duy, chiêm nghiệm nghĩa lý ẩn tàng rốt ráo thì đó là TƯ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây tức rơi vào thông bệnh HỌC PHẬT như đã từng nhắc nhở. Nghịch lý người tu chạy vạy theo hết bằng cấp Phật học Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ rồi đến bằng cấp học thuật thế gian để khẳng định mình trong đội ngũ Tăng đoàn và Phật tử, để được vinh danh là Học giả Phật giáo, Từ điển Phật học “sống”, thậm chí phạm Thượng cho là “A-Nan thời hiện đại” đã biến Đạo Phật giác ngộ giải thoát thành môn học thuật thế gian, đường lối tu chơn Giới – Định – Huệ Tu Phật tự ngàn xưa nay lầm lạc thành sở tri chướng Học Phật cho chấp Ngã – chấp Pháp thêm chất ngất, Pháp vị giải thoát của Như Lai chỉ còn là khẩu thuyết theo ý mê tâm vọng phàm thường mà diễn giải sai lạc chớ nào phải tâm hành kiến ngộ Giác Tánh mà phổ truyền Diệu Pháp. Than ôi! Điển tích “Niêm hoa thị chúng” mà Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã tâm ấn mật truyền phó Pháp cho Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp kế thừa chính là Diệu Pháp về ĐƯỜNG LỐI TU PHẬT GIỚI – ĐỊNH – HUỆ mà Ngài đã trao truyền cho chúng sanh hậu thế y Giáo phụng hành, người tu thời nay sao chẳng liễu ngộ Phật ý mà Mê sự lao xao theo sự tướng huyễn bào? Bao đời chư Tổ “dĩ tâm ấn tâm” mà hoằng truyền mạng mạch Phật Pháp tại thế gian chớ nào có ai a dua theo bằng cấp, học vị, danh lợi… tầm thường lắm mùi tục lụy như sạn thốn mắt? Chớ hỏi vì sao hiện nay, Thiện-tri-thức thật sự đúng nghĩa nào có mấy ai! Do đó, bất kỳ ai, kể cả tu sĩ, nếu chỉ VĂN – TƯ mà không TU thì nặng trược chướng ngã HỌC PHẬT, không phải TU PHẬT nên đó không phải là người tu hành chơn chánh. Phước hay chướng nếu miệng thuyết mà tâm chẳng hành chơn chánh tương ưng? Nhân – Quả theo đó ra sao, tin rằng Đại chúng đã rõ! Nếu tụng Kinh VĂN, sau đó dùng Trí huệ – Chánh kiến để tư duy, chiêm nghiệm tận tường thấu đáo ý Kinh TƯ rồi lãnh thọ, tinh tấn hành trì trong đời sống thường nhật, trau Tâm dưỡng Tánh, nhiêu ích chúng sanh thì đó là TU, lợi lạc vô cùng tùy theo căn trí và tâm lượng của mỗi người. Hãy nhớ Phật đạo do tâm hành mà giác nên sự hành trì tu dưỡng càng cao, công phu thiền định càng thâm thì nghiệp chướng càng chóng tiêu trừ, trí huệ càng sáng, đức hạnh càng sâu, đến khi Chơn tâm Giác tánh hiện tiền kiến Tánh thì diệu dụng hóa độ chúng sanh trong khôn cùng cảnh giới khắp cõi 10 phương như Chơn nguyện là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. * TÓM LẠI TỤNG KINH không lợi lạc gì! Dẫu có thường xuyên, đều đặn tụng Kinh mỗi ngày 4 thời trước Phật đài đi nữa thì cũng phí công vô ích mà thôi! Như Ngũ giới hay Thập giới của phái cư sĩ tại gia có lẽ ai cũng biết, tuy nhiên nếu không thọ trì thì cái biết đó có ích lợi cho đời sống của mình không? Hay tụng Kinh Vu Lan nói về lòng yêu thương bao la vô điều kiện, công ơn sanh thành dưỡng dục và đức hy sinh cao cả của Cha Mẹ dành cho con cái, ta có nghĩ đến thực tế mình đã vuông tròn Hiếu đạo hay chưa? Nghĩ đến rồi, ta có chuyển thành hành động thiết thực ân cần quan tâm, chăm sóc, hiếu để với mẹ cha bất luận tháng ngày không hay chỉ là “hiếu trong tư tưởng” rồi thôi? Ta có nỗ lực tu hành để hồi hướng cho song thân, dẫu Người còn hay đã khuất, nói riêng cũng như tất cả Pháp giới chúng sanh nói chung, đền đáp Tứ ân trong muôn một hay chưa?… Hãy tự soi xét lại mình mà tỉnh ngộ và tinh tấn hành trì lời Phật dạy! TRÌ KINH thì muôn phần lợi ích, sai khác tùy tâm lượng thọ trì của mỗi người! Rốt ráo hơn, TRÌ TÂM tức trưởng dưỡng hạnh Từ – Bi – Hỷ – Xả, tịnh nhiếp 6 căn trụ tâm thiền miên mật ba thời chẳng mỏi. Nếu có thể công phu đến NHIẾP TÂM THÀNH GIỚI thì ĐỊNH – HUỆ khai, kiến ngộ Giác Tánh, liễu thoát tử sanh! CHƠN KINH, DIỆU PHÁP được lưu xuất từ Trí Huệ Vô Sư, Chơn tâm Giác tánh của Bậc kiến Tánh nên luôn khế lý hiệp chơn, không bị Tà mị hư vọng tam sao thất bổn. Và chỉ có Bậc kiến Tánh mới minh định liễu trạch rốt ráo Diệu Pháp Phật truyền giữa thời mạt tâm loạn Pháp hiện nay. Ai thống thiết với sự sanh tử vô thường thoáng không hẹn trước, ai xót xa thấu cảm với nỗi khổ của tha nhân và muôn vạn chúng sanh như thể mình đồng cảnh ngộ mà nguyện Từ Bi cứu độ tất cả, tiếp gót Như Lai thì chắc chắn người đó sẽ không màng sanh tử mà tự giác nhẫn lực tu hành miên mật không mệt mỏi. Ngược lại, a dua vui say thói tục dưới hình tướng Tăng sĩ và danh nghĩa Phật Pháp trên sự cúng dường của đàn na tín thí và niềm tin Tam Bảo của chúng sanh thì chắc chắn Phật chủng không còn, huệ mạng dứt lìa, khổ đọa muôn kiếp. Mong tất cả tỉnh tâm TU PHẬT! Diệu Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật __ Diệu A Di Đà Phật __ Cổ Thiên

trì tụng là gì